Trong số các môn cổ xưa còn được lưu truyền tới ngày nay thì Phong Thuỷ có ảnh hưởng và huyền bí vào loại bậc nhất. Số người bài bác không tin môn này không ít nhưng phần lớn thì vô cùng sùng bái và tin tưởng. Vậy thực chất môn học cổ này có giá trị gì không? Xin thưa là có gía trị! Gía trị của nó tới đâu hãy để cho mỗi cá nhân tự đánh giá sau khi ta xem xét bản chất của nó qua bài viết về Phong Thuỷ dưới góc độ hiện đại:
1- Cơ sở lý luận của Phong Thuỷ dưới con mắt hiện đại:
Từ hàng nghìn năm nay triết học phương đông, triết học cổ đại, triết học phương tây và cả triết học của chủ nghĩa xã hội ... cũng đều khẳng định rằng vạn vật đều hình thành và phát triển do sự tồn tại của hai mặt đối lập “vật chất và ý thức” hay nói khác đi là "âm và dương". Tuy vậy duy chỉ có triết học Phương Đông hiểu rõ hơn “vật” là gì, coi “vật” như một "vũ trụ" vận hành theo qui luật của tự nhiên và qui nó về một hệ cơ sở là "ngũ hành" để tiện bề nghiên cứu.
Nói “ngũ hành” là một hệ cơ sở (triết học Phương Đông có sử dụng nhiều hệ cơ sở khác nữa) vì triết học Phương Đông có thể qui (qui gần đúng hay qui thô) vạn vật về năm hành "kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ" cũng giống như trong thương mại quốc tế người ta qui mọi đồng tiền của các nước về hệ cơ sở là đông đô la Mỹ vậy. Xét đến đối tượng nghiên cứu cũng như các vấn đề cần giải quyết của khoa học Phương Đông mà cụ thể là môn Phong Thuỷ thì với hệ cơ sở này là tạm đủ. Tuy vậy trong nhiều trường hợp người ta còn chia “ngũ hành” ra làm nhiều loại chi tiết hơn cho mô hình nghiên cứu được chính xác hơn. Chả vậy mà Phong Thuỷ ngoài khái niệm “Ngũ tinh” còn có khái niệm “Lão cửu tinh” và “Thiên cơ cửu tinh”...
Bản thân "vật" là một thực thể tồn tại khách quan, hoàn toàn không phụ thuộc vào việc con người có nhận biết được nó hay không và điều này thì khoa học cơ bản đã công nhận rồi. Nhưng trước đó nhiều thế kỷ triết học Phương Đông đã khẳng định "vật" tồn tại ở hai dạng "hình và khí" tức là giống với dạng “Sóng và Hạt” theo Vật Lý ngày nay. Cao hơn nữa triết học Phương Đông còn cho rằng "vật" cũng tồn tại ở hai dạng "hữu cơ và vô cơ" nên khí và hình cũng tồn tại ở hai dạng "hữu cơ và vô cơ", đây chính là vấn đề mấu chốt của địa lý phong thuỷ mà người phương Tây rất khó “ngộ” ra.
Từ xa xưa cũng như ngày nay các khí công sư, các bậc khô thiền...có thể nhìn thấy khí (trường năng lượng), hơn nữa là nhìn thấy với mọi màu sắc khác nhau. Các vị đó xem khí của đất để biết “chân long bảo địa”, của người để đoán mệnh, bệnh, nhìn khí của hiện trường để phá án .Các bạn chớ có kinh ngạc vì đó là nguyên lý "Có hình tất có khí" và "đã có khí rồi thì có hình". Các Tiền Triết đã nắm được đặc điểm này mà phát minh ra phép "Vọng Khí" dùng để lựa chọn một cách tốt nhất trường khí của môi trường, chọn nơi tốt nhất để ở hoặc táng người thân cũng như để tiên đoán thời cuộc và vận nước.
Xét trên bình diện của địa cầu Phong Thuỷ phân ra hai phần âm dương, phần bắc bán cầu là âm và phần nam bán cầu là dương. Phần bắc lại chia ra Bắc Cực tính “hàn’’ là âm còn vùng Xích Đạo là dương, Phần nam bán cầu thì vùng Xích Đạo là dương còn phần Nam Cực là âm. Hai nơi có khí hậu điều hoà nhất ở phần bắc và phần Nam là những nơi âm dương giao hoà là những địa điểm tốt nhất về mặt phong thuỷ (Các nước phát triển, đế quốc thường ở những nơi này- nơi không lạnh không nóng).
Xét trên bình diện vũ trụ, "khí" tồn tại ở khắp mọi nơi nó chính là "hạt" cơ bản cấu tạo nên vũ trụ. Trên trái đất "khí" tồn tại trong bầu khí quyển, "khí" tới từ vũ trụ từ các giải “Ngân Hà” xa xôi. Theo qui luật "có hình tất có khí" khí mang tính âm sẽ bị hấp thụ bởi các đỉnh núi cao (các Tiền Triết từng nói: khí nương vào hình) rồi "thẩm thấu" theo các mạch núi, đất di chuyển xuống thấp mà sau này ta gọi là "long mạch"...
Cũng theo qui luật "có khí tất có hình" mà các mạch núi, đất này sẽ dần dần biến đổi hình dạng cho phù hợp với tính chất "khí" ở trong nó (Hình nào thì khí đấy). Do hiểu rõ qui luật này mà các tiền nhân, Tiền triết mới đưa ra các khái niệm "ngũ tinh, lão cửu tinh, cửu diệu...". Trong phong thuỷ khi xét về hình thế của đất mà thực chất là xét tới tính chất của “khí” của long, do vậy khái niệm "khí" là mấu chốt của phong thuỷ xem ra là chưa đủ mà còn phải xét đến hình vì cả hình lẫn khí mới là hai mặt của một vấn đề (nhất âm nhất dương chi vị đạo).
Về tính chất của "khí", khí bị nước hấp thụ hay nói khác đi "khí" gặp nước thì dừng. Phong thuỷ qui ước "khí" là dương thì "hình" là âm. Xét bản thân hình gồm núi (long) và nước (thuỷ) thì núi là âm mà nước là dương do vậy phong thuỷ địa đạo luôn luôn phải nhớ câu "sơn thuỷ hữu tình". Ngày nay trong khoa học người ta đã tìm ra sóng Viba. Sóng này bị nước hấp thụ hay nói khác đi gặp nước thì dừng do vậy nhiều người khẳng định “khí” là sóng dạng Viba.
Theo qui luật "cô âm bất sinh độc dương bất phát" thì chỉ khi có đủ âm dương thì mới động dục mà sinh sản nên những nơi "sơn hoàn thuỷ bão" thì nhiều khả năng có địa "kết". Nói nhiều khả năng vì vẫn chưa đủ điều kiện, Tại sao vậy? Vì như đã nói ở trên, "khí" mang tính âm thẩm thấu qua "long" đi mãi cho đến nơi kết sẽ “đột” (âm) khởi hoặc bình “oa” (dương) kết huyệt với rất nhiều các ứng "tinh". Các ứng "tinh" này sẽ tạo ra một vùng lòng chảo hoặc một vùng nón úp có vai trò "ăng ten" thu các khí mang tính dương trên không trung tụ lại trong thuỷ. Kết quả là âm dương, thiên địa giao hoà mà kết huỵêt. Các Tiền Triết quả thật vô cùng thâm sâu khi đưa ra nhận định "chứng ứng" ứng với thiên tinh trên trời khiến cho nhiều hậu học không đủ cơ duyên chẳng biết đâu mà lần....
Đồng hành với quá trình khí âm đi theo long mạch, "khí" mang tính dương cũng thẩm thấu vào nước và ánh sáng tạo thành các dòng sông con suối mang “ánh quang” đi sát bên "long" như vợ với chồng tới nơi long đình khí chỉ,"địa hộ" đóng lại, âm trữ dương tồn thì tạo ra địa "kết" , song thể kết có khác nhau ở chỗ "nhũ ,đột" và "oa, kiềm". Theo qui luật " dương hấp âm hô" thì khí âm sẽ kết kiểu "oa, kiềm" còn khí dương thì tụ kiểu "nhũ, đột" , đó là nói về sự "kết" ở vùng sơn cốc và bình dương. Hai khái niệm sơn cốc và bình dương thì theo qui luật " Vô cực sinh thái cực, thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng", sơn cốc núi cao nên gọi là “lão âm”, thung lũng bằng phẳng ở đây gọi là “thiếu dương” tương tự như vậy bình điền cả một bằng phẳng không biến đổi nên gọi là “lão dương”, các gò đồi đột khởi tại đây gọi là “thiếu âm”. Nơi sơn cốc âm khí thì thu lại, còn nơi bình điền khoáng dã dương khí thì tản ra do vậy huyệt kết nơi sơn cốc cần rộng rãi còn nơi bình điền thì lại cần thu lại không ngoài nguyên lý của trời đất là "lấy cái thừa bù cái thiếu". “Lão âm và lão dương” thì già cỗi vô sinh, “Thiếu âm thiếu dương” thì đầy sức sống tươi trẻ mới có thể sinh con. Cái lý của tự nhiên thật đơn giản nhưng cũng thật diệu kỳ,Tứ tượng đã sinh tự khắc bát quái sẽ hình thành mấu chốt là ở chỗ ai biết nguyên lý để giải được trận đồ bát quái?
Với cơ chế tương tự, khí dương theo nước mưa; ánh sáng… thẩm thấu xuống đất bằng - cả một vùng bình nguyên đồng bằng rộng lớn (lão dương). Long mạch ở bình nguyên dẫn khí dương đi, những nơi khởi cao hơn dù là chút ít (cao nhất thốn vi sơn, đê nhất thốn vi thuỷ) là dấu tích của long mạch. Khi có dấu hiệu của âm dương giao hoà sinh khí, khởi lên một loạt tinh phong quần tụ cũng là lúc thuỷ đổ dồn về thì có kết tác vì thuỷ tích khí dương còn các tinh phong (ứng tinh) đột khởi nơi bình địa thu khí âm. Thật là một nơi "thiên tạo địa thiết", Phong thuỷ chân long dành cho người có đủ cơ duyên. "Dương thăng âm giáng" phu gặp phụ kết thúc một chu trình của sự vân động của thiên và địa.
Long mạch làm nhiệm vụ vận chuyển “nội khí” biến đổi theo qui luật “Càn Khôn đại Quái”. Ứng tinh thu “ngoại khí” biến đổi theo nguyên tắc “Tam Nguyên Huyền Không Đại Nguyên Pháp”. Khi hai khí “nội ngoại” theo chu kỳ biến hoá của mình gặp nhau thì còn chỉ chờ “cơ duyên” nữa là đại nhả tinh hoa... Thiên đã thời địa đã lợi chỉ còn chờ có nhân hoà...
Xét việc trong vũ trụ này ngoài "thiên địa" còn phải xét đến "nhân" vì thiên địa nhân là hợp nhất. Con người là "vật" là tiểu vũ trụ do vậy con người có “hình và khí” chỉ có khác là “hình và khí” của con người có tính "hữu cơ", có nguồn gốc từ tế bào, axit amin, albumin, nhân tế bào và đặc biệt là có nguồn gốc từ axit deoxiribonucleic tức là mật mà di truyền ADN. Mật mã “di truyền” là bản thể sẽ qui định trường khí của mỗi cá nhân lúc mới sinh ra và phát triển sau này.
Con người trong xã hội có nhiều mối quan hệ do vậy trong Phong Thuỷ có đề cập đến “khí” của một cá nhân, “khí” của cả một dòng họ và cao nữa là “khí” của cả một dân tộc. Ta thấy khái niệm này là tương đồng với khái niệm “nghiệp” của các nhân, dòng họ và dân tộc trong đạo Phật. Về trường nhân khí, trường nhân khí có hai loại "dương và âm" đàn ông thuộc dương còn đàn bà thuộc âm. Phong Thuỷ qui trường nhân khí về tập hợp của “cửu khí” và “ngũ hành” vì thế trong đông y người ta có thể chia các bộ phận trong cơ thể ra âm dương và ngũ hành từ đó hình thành khái niệm “lục phủ ngũ tạng”. Cửu khí trong cơ thể vận hành theo các kinh mạch. Các kinh mạch lại được chia ra thành âm dương, chính phụ và giao điểm của các kinh mạch chính là nơi âm dương giao hoà hay còn gọi là “huyệt đạo”. “Huyệt đạo” cũng chia ra âm dương chính phụ nó là nơi tiếp nhận tín hiệu của môi trường cũng như gửi các tín hiệu của cơ thể ra môi trường. Các Thiền sư qua quá trình khổ luyện khi đã đả thông các kinh lạc, huyệt (mở các Luân Xa) thì đều có thể cảm nhận được khí của môi trường và bản thân cũng toả ra các “hào quang nhân thể” ra môi trường. Các hào quang này có các mầu sắc tương đồng với cửu khí vận hành trong cơ thể.
Đặc điểm của "trường khí hữu cơ" ngoài các đặc điểm có tính chất sóng, hạt, năng lượng và định hướng còn có hai đặc điểm rất rõ nét: Một là tính có thể khống chế, tức là chịu ý niệm khống chế, đặc điểm này có thể nhìn thấy được trong các thí nghiệm đo đạc trường năng lượng nhân thể, trạng thái tinh thần có thể ảnh hưởng đến độ mạnh yếu của của trường nhân thể. Hai là “nghiệp” và mức độ "thanh" hay "trọc" của "trường nhân khí" là phụ thuộc vào bản tính "thiện" hay "ác" , “tham sân si” của mỗi cá nhân. Cá nhân có trường khí tốt hay xấu thì từ dó có ảnh hưởng giao cảm đến trường khí của dòng họ mà anh ta được sinh ra (thông qua mật mã ADN) . Các dòng họ phúc lớn có nhiều đóng góp cho sự phát triển của xã hội thường thế lực, trường tồn và sản sinh ra những nhân tài xuất chúng trong nhiều đời. Điều này đặc biệt đúng và tuân thủ nghiêm ngặt luật “Nhân Quả” trong đạo phật.
Xét đến cơ chế của sự kết phát (nhận được khí tốt), Phong thuỷ đưa ra hai cơ chế như sau:
Cách hấp thụ trực tiếp: xẩy ra khi bản thân con người (nhà ở trên đất tốt) hấp thụ được khí tốt của môi trường "huyệt". Trung tâm "huyệt" đóng vai trò như một "đài phát sóng truyền hình" và trường nhân thể đóng vai trò của "máy thu hình". Trường nhân thể nào có cùng tần số lập tức bắt được sóng năng lượng của trung tâm “huyệt” một cách trực tiếp, như vậy càng ở gần trung tâm “huyệt” sóng bắt được càng rõ nét và tương ứng mức độ kết phát càng lớn và càng dễ kết phát.
Cách gián tiếp hấp thụ (hấp thụ qua mộ phần trên đất tốt hay qua người thân đang sống):
Đối với người đang sống sau khi nhận được năng lượng sóng từ trung tâm năng lượng truyền đến, hấp thụ một phần và bản thân sẽ trở thành một trạm phát chuyển tiếp để truyền năng lượng đến các trường nhân thể có quan hệ huyết thống khác trên cơ sở mật mã di truyền (đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu) . Dĩ nhiên là các trường nhân thể càng "non trẻ" càng dễ dàng hấp thụ năng lượng.
Đối với người đã chết phần thân thể là những thứ tồn tại ở dạng “hình” trong một thời gian dài sẽ là các trung tâm tiếp nhận sóng và chuyển tiếp đến các trường nhân thể khác có quan hệ huyết thống cũng trên cơ sở mật mã di truyền. Con cháu của người trong mộ tự nhiên sẽ hấp thụ khí tốt này mà trở nên may mắn trong cuộc sống mà dân gian gọi là mộ "phát".
Khoa học hiện đại ngày nay khi nghiên cứu các vấn đề thực tiễn thường dùng phương pháp mô hình hoá, đơn giản hoá sau đó phát triển dần cho gần với mô hình thực tế rồi đem ra áp dụng. Phong thuỷ cũng vậy, từ đầu đến giờ bài viết đã đưa ra một mô hình đơn giản dễ dàng cho việc nghiên cứu còn trong thực tế mô hình phong thuỷ phức tạp hơn gấp bội phần. Sự phức tạp của nó thể hiện ở các điểm sau :
Một là "trường nhân thể" không đơn thuần chỉ là một trung tâm thu và phát năng lựơng sóng mà nó là một "trường hữu cơ" với đầy đủ các tính chất phức tạp của nó ( có sự sinh trưởng và phát triển, có ý niệm, có cảm xúc)...
Hai là sự vận động của vũ trụ là không ngừng "không ai có thể tắm hai lần trên một dòng sông" do vậy các "trung tâm năng lượng" là biến đổi không ngừng lúc mạnh, lúc yếu, lúc cát, lúc hung.... do vậy phong thuỷ mới có khái niệm "vận" và "mở huyệt, đóng huyệt" điều này cũng tương đồng với học thuyết " Linh qui bát pháp, tý ngọ lưu chú" trong đông y khi nghiên cứu kinh lạc, huyệt trên cơ thể con người
Ba là sự kết hợp của hai "trung tâm năng lượng huyệt và trường nhân thể" là một cơ chế phức tạp không đơn thuần như đã mô tả ở trên vì nó còn chịu sự tác động của rất rất nhiều trường khí hữu cơ khác mà một trong số đó người xưa gọi là "long thần hộ vệ"…Sự kết hợp này là cả một “cơ duyên” vô cùng phức tạp và là tiền đề của những thay đổi của cả một xã hội hay mô hình phát triển ...
Bốn là có tồn tại một cơ chế điều khiển của các trung tâm năng lượng do vậy mà xuất hiện các môn chấn yểm bùa ngải … cũng như tồn tại các thế lực muốn điều khiển các trung tâm này
Năm là các trung tâm năng lượng có trung tâm "sống" và các trung tâm "chết" . Sống thì tự sinh có thể dùng lâu dài mà không hết còn “chết” thì chỉ dùng trong khoảng thời gian ngắn là cạn kiệt
Sáu là “khí” là không thuần khiết một hành mà có thể vừa mang tính mộc vừa mang tình thổ...vì thế Phong Thuỷ thực tế càng khó hơn nhiều so với lý thuyết.
Bẩy là để có sự kết phát nó đòi hỏi sự cùng tới tại một thời điểm của nội, ngoại và nhân “khí” việc này chỉ có thể xảy ra do cơ duyên chứ sức người khó mà định đoạt được.
Tám là có sự khác biệt về dương trạch (nhà) và âm trạch (mộ). Dương trạch lấy sự vận động của thiên khí làm chính còn âm trạch lấy sự vận động của địa khí làm chính do vậy nguyên lý “hoạt động” của hai trạch có sự dị biệt. Dương trạch ảnh hưởng nhẹ, nông mà nhanh còn âm trạch ảnh hưởng mạnh, sâu mà chậm.
Trên đây là những cơ sở lý luận căn bản nhất của môn Phong Thuỷ
2- Hệ thống kiến thức của Phong Thuỷ:
Hệ thống lý luận của môn Phong Thuỷ được hình thành và xây dựng qua nhiều thế hệ từ lúc sơ khai cho đến phức tạp như ngày nay trải qua hàng nghìn năm. Trong quá trình phát triển Phong Thuỷ luôn được coi là “báu vật” mang lại cho người sử dụng những lợi ích vô tiền khoáng hậu nên bị cấm phổ biến và bị nguỵ tạo về lý luận do vậy càng trở lên huyền bí và khó tiếp cận. Âu đó cũng là qui luật của tạo hoá bày ra để mà trêu ngươi con người luôn mưu cầu hạnh phúc mà không muốn trả tiền cho nó...
Về lý luận, thâu tóm lại Phong Thuỷ chia ra làm các phần riêng rẽ nhưng liên quan mật thiết đến nhau là: Vị trí, Hình thế, Lý khí, Số và Mệnh.
Vị trí: Trái đất chia ra hai nửa âm dương, hai cực trái dấu do vậy tuỳ vị trí trên địa cầu mà Tính chất Phong thuỷ và cách áp dụng lý thuyết cũng có khác nhau mà các sách cổ Phong Thuỷ còn sơ xuất chưa đề cập tới.
Hình thế: Núi non, sông suối, mặt đất gò đồi... là thứ mà con người có thể nhìn thấy và cảm nhận. Nó là cái hữu hình của khí mà người ta có thể nắm bắt do vậy cách thức xem Phong Thuỷ qua hình thế ra đời. Ở gần nhìn hình phân xấu đẹp đứng xa nhìn thế biết sang hèn, đẹp là biết ngoại hình thế là để xem phong cách. Cả thế và hình hoàn mỹ mới thật vẹn toàn như thiếu nữ có nhan sắc đẹp đẽ còn đoan trang duyên dáng, con nhà gia thế.
Phái hình thế ra đời từ rất lâu tại Trung Quốc mà người đại diện là Dương Quân Tùng với luận thuyết nổi tiếng "âm dương thư hùng". Phái hình thế đã xây dựng được một khối lượng lớn các luận thuyết tương đối hệ thống đồng thời đưa các quan niệm "tôn tộc ", "thiên phụ, địa mẫu" và hình tượng người phụ nữ. Họ coi quả đất là mẹ của muôn vật và hình tượng hoá khu vưc kết huyệt bằng hình tượng của người phụ nữ (huyệt ví như nơi sinh sản của phụ nữ): " Núi non vạn dặm, nơi nào cũng có tổ tông, nếu gặp cha mẹ dực dục,thai tức sau đó hình thành. Nhận hình lấy huyệt, biết rõ nơi cha sinh thành, nơi mẹ dưỡng dục.Thiên môn tất phải mở ra sơn thuỷ sẽ đến. Địa hộ tất phải đóng lại sơn thuỷ sẽ về.Thiên môn là nơi nước đến, địa hộ là nơi nước đi. Huyệt ở nơi đó, không ở nơi khác. Trong chỗ nhô lên vẫn có hang hốc, ở nơi cao có thấp,trong hang hốc vẫn có chỗ nhô cao, trong chỗ thấp vẫn có chỗ cao…Đạo lý của thiên hạ, âm dương ngũ hành không thoát ra ngoài một cái vòng. Vòng này là huyệt của sinh tử. Giữa trời đất có vòng nhỏ, vòng lớn, hiểu được vòng này đâu đâu cũng là vòng. Trời đất xoay chuyển, ai hiểu được trăm ngàn điều lý thú trong vòng này là tiên giữa trần gian….. Vòng này là vòng thiên vòng địa, tròn cùng không tròn, vuông cũng không vuông, dẹt cũng không dẹt, dài cũng không dài, ngắn cũng không ngắn, rộng cũng không rộng, nhọn cũng không nhọn, trọc cũng không trọc, trong ý thức con người như có như không đó là vòng tự nhiên. Âm dương đứng ở trong đó, ngũ hành sinh ra ở trong đó. Trong vòng hơi lõm xuống như nước mà không phải nước. Ngoài vòng hơi nhô nên như cát mà không phải cát..".
Để có thể nghiên cứu sâu và chi tiết, phái hình thế đưa vô vàn khái niệm như Long, thuỷ, huyệt, án, sa, thanh long , bạch hổ, huyền vũ, chu tước, thai tức, thiềm ,cầu , hà tu , hợp khâm, , ỷ chi, sứ huyệt tất , thiên tâm thập tự…. Từ đó lại phân loại nhiều loại long , thuỷ….
Xét cho cùng mục đích của phái hình thế là tìm ra ngũ quyết địa lý bao gồm Long , huyệt, sa, thuỷ, hướng tức là nghiên cứu địa khí của khu vực cần phải khảo sát hay nói rộng ra là đi tìm trung tâm "phát sóng" trong tự nhiên.
Lý khí: Phái lý khí cho rằng vạn vật, thiên địa đều do khí sinh ra " tất cả mọi vật đều là khí", "núi sông thuỷ thổ đều có chứa khí là đại trạch của tạo hoá vì vậy khí lưu hành đầy trong vũ trụ. Thiên địa vạn vật đều là một thể". Vạn vật của thiên địa đều là một thể do vậy giữa chúng phải có một điểm chung, đó chính là "lý". "Lý" tồn tại hiện thực nhưng lại vô hình, sự kết hợp của "lý" và "hình" chính là tượng của khí. "Lý" sinh ra từ khí, "lý" của vạn vật trong tự nhiên có quan hệ mật thiết với loài người đó chính là qui luật của thời gian và không gian, qui luật của vũ trụ về phương vị của thời gian và không gian. Dựa trên cái "lý" đó phái lý khí đã xây dựng một khối lượng đồ sộ các hệ thống lý thuyết trên cơ sở của ngũ hành sinh khắc, âm dương bát quái, cửu tinh, bát môn, thập nhị bát tú, thập nhị tứ sơn, 72 long xuyên sơn, 60 long thấu địa, 24 huyệt châu bảo, tử phụ tài quan quí nhân lộc mã, thiên địa nhân qui tàng quái phân kim….với hai trọng điểm lý luận:
- Lấy phương vị (Đông, Tây, Nam,Bắc) là chính tức khí ở phương vị khác nhau thì tốt xấu khác nhau
- Lấy thời gian làm chủ tức cùng một phương vị thì tại các thời điểm khác nhau thì tốt xấu khác nhau
Xét cho cùng mục đích của phái lý khí là tìm ra hướng và thời gian tức là nghiên cứu thiên khí của cả một vùng hay nói rộng ra là nghiên cứu làm sao có thể nhận sóng tốt nhất dù ở trong hay ngòai trung tâm phát sóng
Xét về tổng thể hai phái "hình thế" và "lý khí" là không thể tách rời, mặc dù cả hai phái đều xây dựng trên cơ sở lý luận riêng của mình. Phái lý khí so với phái hình thế có cơ sở lý luận tương đối hoàn chỉnh hơn. Phái hình thế từ rất sớm đã lựa chọn địa hình, địa thế và điều kiện môi trường làm điểm xuất phát xây dựng nên hệ thống học thuyết của mình. Phái lý khí xuất phát từ quan hệ của khí, số, lý mong muốn tìm được qui luật và mối liên hệ nào đó giữa con người và "thiên lý" nhằm đạt được sự thông đạt của khí, lý giữa con người và môi trường, từ đó tìm ra môi trường lý tưởng có lợi cho nhân sinh. Nhìn trên tổng thể có thể nói sự truy tìm chiều sâu lý luận của phái lý khí cao hơn phái hình thế. Tuy vậy ranh giới giữa chúng là không rõ ràng, hai phái đều có những điểm chung về thực chất đó chính là "khí", "sinh khí" và người xưa cũng đã dần dần nhận rõ điều này : "Người không biết về loan đầu không thể nói đến lý khí. Người không biết về lý khí không thể nói đến loan đầu. Người tinh thông loan đầu cuối cùng sẽ tự hợp với lý khí. Người tinh thông lý khí cuối cùng sẽ tự hợp với loan đầu. Loan đầu không chỉ có long, huyệt, sa, thuỷ đó mới chỉ là nội dung sơ lược. Cần phải tìm hiểu rõ về địa thế cao thấp , nguồn nước tụ tán, hướng thế của sa pháp, long khí dầy mỏng, thời khắc hưng vượng …". Điều này càng nói rõ lên rằng hình thế và lý khí là một tổng thể, là hai mắt xích không thể tách rời. Câu chuyện này cũng giống câu truyện dài và ly kỳ của khoa học phương tây đưa dến kết luận : " Ánh sáng vừa có tính chất sóng vừa có tính chất hạt" tức vừa là hình (hạt) vừa là khí (sóng)
Số: Vô cực sinh thái cực, thái cực sinh lưỡng nghi (hệ cơ số 2 âm và dương), lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái có thể biểu diễn mọi sự kiện, sự vật từ nhỏ vô cùng đến lớn vô cùng. Phong thuỷ là một môn khoa học nghiên cứu về phạm trù "khí và hình" nên đương nhiên không vượt qua sự chi phối của qui luật phổ biến với hệ cơ số 2 do vậy việc áp dụng kinh dịch vào phong thuỷ đã được người xưa chú ý và đây chính là phương pháp nhiên cứu phong thuỷ đỉnh cao mà ít người biết tới. Điểm lại sách cổ của phái hình thế ta bắt gặp nhiều đến quái, tượng trong việc luận đoán cát hung cho một cuộc đất. Tuy vậy về mặt lý luận vẫn còn sơ sài so với phái lý khí đã hình thành một hệ thống lý luận áp dụng kinh dịch đến độ tinh vi thể hiện ở ba điểm sau :
Một là : Về mặt phương hướng người xưa đã tiến hành đưa quẻ vào từng phương vị của lục thập thấu địa long, thất thập nhị xuyên sơn hổ rồi từ đó tạo ra ba vòng thiên nguyên, địa nguyên và nhân nguyên qui tàng quái phân kim sau đó tiến hành đưa quẻ vào đến từng long khí rồi dựa trên hai nguyên tắc "Có động mới có dụng" và "cùng tất biến" để diễn quái kết hợp với mệnh chủ biến theo không gian, thời gian cùng hoạ phúc của họ mà luận cát hung…
Hai là : Về mặt thời gian trên cơ sở của huyền không phi tinh kết hợp với huyền không đại quái đã mang lại đỉnh cao cho huyền không học – Môn môn phong thuỷ bí truyền mới được phổ biến ra dân gian từ đời Thanh
Ba là : Việc ứng dụng của Mai hoa dịch số, Bốc phệ, quẻ Khổng Minh … vào phong thuỷ tạo thêm một cơ sở kiểm chứng cũng phát triển mới đưa phong thuỷ nên một tầm cao mới nhất là trong cuộc sống hiện đại ngày nay.
Mệnh: Con người là chủ nhân của quả đất, là tinh hoa của vũ trụ, là linh trưởng của vạn vật. Tất cả những gì mà con người nghiên cứu là nhằm mục đích phục vụ cho chính họ. Vì vậy không nằm ngoài - con người cũng là một đối tượng nghiên cứu chính của phong thuỷ. Cơ chế nào chi phối cho sự ăn nhập của cá nhân con người (nhân mệnh) với năng lượng Phong Thuỷ là điều mà Phong Thuỷ học cần giải quyết.
Phong Thuỷ hiện đại ngay nay đã đổi khác nhiều so với Phong Thuỷ cổ đại. Khi mà chu kỳ vận động của xã hội đang diễn ra một cách chóng mặt. Cầu, cống, đường xá, sân bay, bến cảng... ngày ngày được xây dựng, các phương tiện máy móc... hoạt động không ngừng. Con người ngày càng bị chi phối nhiều hơn bởi các yếu tố nhân tạo do vậy đòi hỏi Phong Thuỷ hiện đại cũng phải có một cái nhìn mới với một hệ thống lý thuyết mới trên cơ sở kế thừa và phát triển lý thuyết cổ xưa.
3- Các Chứng Nghiệm Phong Thuỷ:
Các chứng nghiệm về Phong Thuỷ hiện nay không thiếu tuy nhiên có rất ít người hiểu được sự thật của Phong Thuỷ để tin đó là một chứng nghiệm. Bản thân những người đã từng nghiên cứu Phong Thuỷ hàng nhiều chục năm vẫn mày mò, thắc mắc, trăn trở tại sao cuộc đất đẹp như thế về “hình thế” mà mãi không thấy phát? Tại sao ngôi nhà đúng vận, hướng, toạ hợp cách mà vẫn có tai hoạ. Tại sao và tại sao?
Tại vì có sai lầm trong nghiên cứu. Tại vì chưa học được chân địa lý. Tại vì áp dụng chưa linh hoạt trong cuộc sống hiện tại...
Xưa nay Thày xem địa lý chỉ xem chỗ kết huyệt thấy đẹp cho là đắc ý mà chưa biết huyệt đó là giả hay chân, long mạch lành hay dữ đó là sai lầm thứ nhất. Long mạch vận hành có chu kỳ lúc vượng lúc suy đặt vào lúc suy đó là sai lầm thứ hai. Long là nội khí, vận là ngoại khí đặt mộ làm nhà vào lúc nội ngoại khí không gặp đó là sai lầm thứ ba. Dương trạch không trên long mạch lấy ngoại khí làm trọng lấy nội khí làm phụ, âm trạch lấy nội khí làm trọng ngoại khí làm phụ nay dùng Phi Tinh cho cả hai đó là sai lầm thứ tư (dương trạch áp dụng Phi Tinh có ứng nghiệm nhất định). Mệnh chủ không hợp cưỡng cầu dùng đất phá hại long mạch đó là sai lầm thứ năm. Làm nhà đặt mộ không theo bổ long tướng chủ đó là sai lầm thứ sáu. Không hiểu Phong thuỷ làm theo “tạp thư” đó là sai lầm thứ bẩy... Sai lầm tức Phong Thuỷ sẽ bất ứng là lẽ dương nhiên đấy là còn chưa kể không sai lầm mà chưa tới thời tới chốn thì không nghiệm cũng là chuyện thường tình...Thế mới nói Phong Thuỷ bản thân nó không sai nhưng rất dễ bị hiểu sai là vậy.
Các chứng nghiệm sau dựa trên những sự kiện có thật và các thông tin xác thực bằng các thực tế kiểm nghiệm tại hiện trường. Xin đưa ra độc giả cùng thưởng lãm và chiêm nghiệm:
a- Một dòng họ có nhiều người đỗ Tiến sĩ do mộ tổ.
Chứng nghiệm này là một câu chuyện đã được nhắc tới rất nhiều trong làng Địa Lý Phong Thuỷ thời phong kiến Việt Nam và đến nay vẫn còn được rất nhiều người nghiên cứu Phong Thuỷ để mắt nghiên cứu. Câu chuyện thật này xoay quanh dòng họ Nguyễn ở làng Kim Đôi còn có tên là Dủi Quan (nghĩa là người dân nơi đây từng sống bằng nghề dủi tôm cá ngoài đồng và sông, đồng thời có lắm người làm quan). Nằm bên bờ Nam sông Cầu, cách tỉnh lỵ Bắc Ninh dăm cây số, làng Kim Đôi hàng thế kỷ được mệnh danh là một trong những "lò tiến sĩ"của nước ta và nổi tiếng qua câu ca lưu truyền đã ghi trong cuốn Phong thổ Kinh Bắc thời Lê:
Kim Đôi nhiều cuộc hiển vinh
Hai mươi lăm vị khoa danh rỡ ràng.
(Trong đó bẩy vị tiến sĩ họ Phạm được xác định là đất tổ phát ở Bình Giang Hải Dương)
Vua Lê Thánh Tông từng bảo thị thần rằng: "Gia thế Kim Đôi chu tử mãn triều" (Dòng họ Kim Đôi áo đỏ áo tía đầy triều). Ngày nay nơi đây đã được nhà nước công nhận là một di tích lịch sử và đền thờ 18 vị tiến sĩ là một điểm du lịch văn hoá của Bắc Ninh.
Họ Nguyễn sống ở làng sinh ra mười tám (18) Tiến Sĩ thời phong kiến từ Trần tới Lê, Nguyễn do có được ngôi mộ tổ đắc khí. Đến thời Pháp người ta đắp con đường đê sau mộ 10 mét và xẻ cống đứt cuống mạch làm hỏng ngôi mộ. Mấy người thanh niên trong dòng họ đỗ tú tài đang học hành tấn tới đột nhiên ngã bệnh chết thế là hết phát.
Long mạch của ngôi mộ xuất phát từ Tổ long tuyệt đẹp long lâu bảo điện , bác hoán phân nhánh nhiều vô số, mỗi nhánh đều có huyệt lớn đủ cả quan, quỉ, cầm, diệu… nhánh chính chạy về đột khởi Tam đảo sơn hình con rết bò (kiểu song nghênh song tống) chạy qua Bắc Ninh, Hà nội, Hưng Yên, Hải dương, Thái Bình và một phần Hải phòng. Kẹp long mạch vào giữa là hai dòng sông lớn là sông Hồng và Sông Thái Bình. Long mạch Tam Đảo sau khi vượt sông Cà Lồ thoát bớt sát khí bắt đầu phân ra nhiều chi long kết huyệt. Một mạch chính sau khi kết huyệt lớn tại Đình Bảng tiếp tục chạy về hướng đông nam đột khởi tinh phong giữa vùng đồng bằng khoáng dã là núi Lạn Kha ở xã Phật Tích, xã Hạp Lĩnh rồi chạy tiếp tới xã Vân Dương và Nam sơn nơi có ngôi chùa Hàm Long nổi tiếng trên đỉnh núi. Long mạch của núi phân chi chạy ngược lên phía bắc dọc theo ngòi Tào Khê đến sông Cầu bỗng quay ngược trở lại kết huyệt. Ngòi Tào Khê này uốn lượn mấy vòng trước khi hoà vào sông Cầu ở phía tả ngạn. Ngôi mộ nằm trên một dải đất nhỏ hẹp bên bờ sông Cầu chầu ra ngòi Tào khê cách mép nước chừng 10 mét. Xét dưới góc độ phong thuỷ mộ này đắc cách: Thuỷ bao Huyền Vũ; Nước nhiễu tứ thành; Minh đường cửu khúc nghịch chiều; Long sa bút Tốn; Hổ đới bảng Tân phát phúc viễn trường thiên về học vấn. Thật là không tận mắt chứng kiến thì khó mà tin được!
b- Đất Đức Thọ Hà Tĩnh có gì mà nhân tài sinh ra không dứt?
Chữ Đức trong từ Đức Thọ có nguồn gốc từ Cửu Chân, Cửu Đức, Đức Châu, Đức quang, Đức Thọ. Huyện Đức Thọ nay đông bắc giáp huyện Hưng Nguyên ngăn cách bởi sông Lam và Huyện Nam Đàn, Đông giáp huyện Nghi xuân và Huyện Can Lộc, Nam giáp huyện Hương Khê, Tây giáp huyện Hương Sơn. Huyện có sông La chảy ở phía Bắc huyện ra sông Cả (sông Lam) ở phía thượng lưu chợ Tràng. Huyện lị trước ở Yên Hồ, nay dời về chỗ cũ ở cạnh sông La và đường xe lửa. Nay ở Linh Cảm trước có đường quốc lộ 8 chạy qua nối liền Vinh với nước Lào. Linh Cảm hồi thuộc Pháp là địa lý hành chính của Tỉnh Hà Tĩnh, nằm ở ngã ba sông Ngàn Phố, Ngàn Sâu và Sông La. Ngày xưa có đền thờ Đinh Lễ, đóng quân ở đó hồi kháng chiến chống Minh. Hai xã Vân Tràng và Trung Lương có nghề rèn được huy động đúc súng kiểu 1874 cho nghĩa quân Hương Khê. Tại Linh Cảm sau khi dẹp xong cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng, Nguyễn Thân cho dựng bia kỷ công, năm 1918 bị nhân dân đánh đổ. Linh Cảm bị Pháp ném bom năm 1949 phá trụi đồi thông, làm chết hàng trăm người...
Các nhân vật sinh ra tại Đức Thọ xưa có: Phan Anh, Phan Điện, Nguyễn Biểu, Đoàn Tử Quang, Hoàng xuân Hãn, Lê Huân, Lê Thước, Bùi Thúc Kiên, Bùi Dương Lịch, Hoàng Cao Khải, Phan Trọng Mưu, Trần Phú, Phan Đình Phùng, Lê Văn Quyên, Đào Tiêu, Phan Tam Tĩnh, Phan Đình Tuyển, Hoàng Trừng, Hoàng Ngọc Phách, Phạm văn Huyến, Thái can, Phạm khắc Hoè. Trong số những người nổi tiếng hiện nay, từ huyện Đức Thọ có: Giáo sư, TSKH, Viện sĩ Vật lý Đào Vọng Đức; Nữ luật sư Ngô Bá Thành; Giáo sư văn học Hoàng Xuân Nhị; Giáo sư văn học, nhà giáo nhân dân Nguyễn Kim Đính; Giáo sư- nhà phê bình văn học Hoàng Ngọc Hiến; Giáo sư Tiến sĩ Khoa học Trần Vĩnh Diệu (anh hùng lao độn